| Tiêu d?: Ông đồ và ngày tết
Từ xưa, mỗi khi tết đến, người ta xuất hiện những ông đồ già, ngồi đâu đó ven đường. Các ông đồ ngồi đó, bày bàn mực, giấy đỏ, viết lên những câu chữ, lời chúc gửi đến người qua đường. Đôi khi người ta còn thấy bên cạnh ông còn có những chú tiểu đồng đứng hầu bên cạnh, mài mực qua nghiên để thầy viết nên những dòng chữ đẹp.
ÔNG ĐỒ
Vũ Đình Liên Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài “Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay.” Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu.
Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay. Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?
OngDo Ngày nay, truyền thống này đang được khôi phục dần sau một khoảng thời gian dài không thấy bóng dáng những ông đồ già.
Tết miền Bắc đâu chỉ được báo hiệu trước tiên bởi những cánh hoa đào, màu hồng phơn phớt đến màu bích đào đỏ thắm. Tết còn được biểu hiện bởi không khí ngày xuân, một không khí vui tươi, cởi mở làm lòng người cảm thấy nao nao khó tả.
Và cũng như mọi năm, tết đến ở xứ Bắc Hà có cành đào, có mâm quả, có hàng trái và đặc biệt là có sự xuất hiện đâu đó bên những góc phố cổ Hà Nội, Chùa Tây Hồ hay Văn Miếu Quốc Tử Giám, nơi tượng trưng cho nền học vấn nghìn năm của xứ Bắc Hà, những ông đồ, già có, trẻ có, ngồi chen lẫn các hàng quán.
Tết miền Nam trong thời gian gần đây cũng vậy. Bên cạnh những vật truyền thống gần như không thể vắng mặt trong ngày tết như hoa Mai, biểu tượng tự hào của người miền Nam, bánh chưng bánh giò, chả lụa, dưa hành… người ta cũng không quên những câu đối đỏ. Đây chính là dịp của các ông đồ hành nghề.
Thế nhưng trong số những ông đồ thời hiện đại này, biết có mấy người biết cái xuất xứ hoặc ý nghĩa của tục lệ câu đối đỏ, ông đồ và hành trang mang theo
ongdo3Trong một khoảng thời gian dài kéo dài mấy trăm năm qua, Đại Việt luôn được Trung Hoa xem như một châu, một quận nơi phương Nam. Văn hóa Đại Việt cũng bị ảnh hưởng rất nhiều từ nền văn hóa phương Bắc. Nền Hán học và chữ Nho chiếm vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa Việt Nam. Các vua quan Đại Việt thời ấy, mỗi khi tổ chức thi tuyển (thi Hương, thi Hội, thi Đình) tìm người tài cũng đều dùng chữ Nho sát hạch.
ongdogia
Vì thế các nhà nho là nhân vật trung tâm của đời sống văn hóa dân tộc, được xã hội tôn vinh.
Ông đồ cũng là người Nho học nhưng không đỗ đạt, sống thanh bần bằng nghề dạy học.
Vốn là một dân tộc hiếu học, người dân phương Nam quan niệm mỗi khi tết đến, treo câu đối trong nhà là thể hiện niềm mong muốn cho con cháu học hành tấn tới, thi cử đỗ đạt. Hơn nữa, qua những chữ viết hoặc những câu đối đặt trang trọng 2 bên bàn thờ hoặc những nơi thiết yếu, khách viếng thăm có thể biết được mức độ gia giáo và truyền thống của 1 gia đình. Chính vì vậy, khi tết đến người ta sắm câu đối hoặc một đôi chữ nho viết trên giấy đỏ dán lên vách, lên cột vừa để trang hoàng nhà cửa ngày Tết , vừa gửi gắm lời cầu chúc tốt lành. Ông đồ được thiên hạ tìm đến và ông có dịp trổ tài. Chữ của ông được mọi người trân trọng, thưởng thức.
Ở thành phố, khi giáp Tết, xuất hiện những ông đồ bày mực tàu giấy đỏ bên hè phố, viết chữ nho, câu đối bán.
Nhưng rồi chế độ thi cử chữ Hán bị bãi bỏ (1915), chữ nho bị rẻ rúng. Trẻ con không còn đi học chữ nho của các ông đồ nữa mà chuyển sang học chữ quốc ngữ hoặc chữ Pháp. Bên cạnh đó, chiến tranh liên miên cộng với cái đói hoành hành khiến cuộc sống mọi người dân vất vả hơn, họ quan tâm đến cái ăn, cái mặc (vật chất) hơn quan tâm đến truyền thống, giáo dục (tinh thần). Vì vậy mà Tết đến, không mấy nhà còn hứng thú sắm câu đối tết, khi đó Ông đồ trở thành hết thời, bị gạt ra ngoài lề cuộc sống mới.
ongdo2
Cuối cùng hình ảnh Ông đồ viết câu đối mỗi dịp xuân về hoàn toàn biến mất trên đường phố và trong trí nhớ mọi người.
Một lớp người đã từng có vai trò không thể thiếu trong đời sống văn hóa xã hội từ xa xưa bỗng vắng bóng trong cuộc đời nhộn nhịp, xô bồ hôm nay.
| |